Thường đọc _Trích từ Tạp bút Quý Dậu 1993



Có lẽ rằng mình may mắn biết đến cụ Vương Hồng Sển từ sớm, lần đầu mình đọc đến cụ là cuốn Di cảo “Dỡ Mắm”

và cũng từ đây mình đã hiểu nhiều hơn về tiếng Việt.

Tin rằng lời thầy mình nói, học nhiều, đọc nhiều để viết không rẻ, làm nghề viết không bị coi khinh.

Mình trích những câu mình thích và có thể đem lại ý tưởng cho mình sáng tạo.


Từ Tạp Bút Quý Dậu 1993 - cụ Vương Hồng Sển


Trong tập nhỏ Pháp văn nói về tiểu sử văn hào André Maurois 

“Conserver l'espérance, c’est également ne pas vieillir. La vieillesse, c’est plus encore que les cheveux blancs et les rides, ce sentiment qu’il est trop tard, que la partie est jouée, que la scène appartient désormais à une autre génération. La vraie maladie de la vieillesse, ce n’est pas l’affaiblissement du corps, c’est l'indifférence de l'âge”.

Dịch:

Còn nuôi hy vọng, ấy đó là mình vẫn chưa già. Cái già, không phải là vì mớ tóc bạc, là vì da đã trổ đồi mồi, và đó là vì có quan niệm lầm lạc rằng đã muộn màng rồi, là canh bạc đã xên, là tần tuồng đã vãn (mãn), là sân khấu đã về tay thế hệ khác… Không đâu không nên nói là già, và bịnh già là đúng ra mình không còn thiết tha với thế sự, cuộc đời đã buông xụi, khi nhựa sống đã cạn, là già, già hẳn…

 

Vài câu văn pháp thâm trầm

“Toujours nous voulons chercher l’éternel ailleurs qu’ici; toujours nous tournons le regard de l'esprit vers autre chose que la présente situation et la présente apparence; ou bien nous attendons de mourir comme si tout instant n’était pas mourir et revivre. A chaque instant, une vie neuve nous est offerte. Aujourd’hui, maintenant, tout de suite, c’est notre seule prise”.


Ta luôn tìm sự bất diệt vô thủy vô chung ở một nơi khác hơn là nơi hiện hữu; ta luôn đưa mắt nhìn về một nơi khác lạ hơn là hiện tại và nơi tựa hồ như hiện thật, tưởng như chúng ta mong chờ cái chết sẽ đến mà quên lửng rằng hiện ta đang chết dần chết mòn tức chết lần hồi, mòn lần từng chút một, tức ta vẫn sanh sanh hóa hóa bất ngờ. Ngày nay đây, giờ nầy đây, tức khắc đây, ấy đó mới thật là cái sự gì mà ta nắm, bắt, chiếm được.


Alain, triết gia, thấy của André Maurois.


Về tình ái, ái tình:

Un amour qui va très bien, c’est-à-dire cahin-caha, c’est difficile; mais un amour qui ne va pas, c’est l’enfer”.


Một mối tình suôn sẻ, nghĩa là ạch đụi, đi cà-hê cà-ha, đã là ái tình chập chững, nhưng khi trở chứng, cơm không lành canh không ngọt, thì tình ái ấy quả là địa ngục, dưới Diêm đài.

A. Maurois (Climats, tr.172)


Lời mẹ dạy con, trước khi về nhà chồng:

“Ne dome pas à ton mari l’impression que tu l’aime trop, ou tu es perdue”.


Đừng cho chồng mầy biết mầy thương nó chí tột mức thương, nếu nó mà biết được như vậy, thì đời con kể bỏ. Con sẽ mất hết, con ôi. (Climats, tr.181)


“C’est comme le sel, nous ne savons même pas que nous en absorbons, mais supprimons-le de tous nos repas et sans doute, nous mourrons.”


Ái tình y như cục muối, muối vẫn xẵng lè, nhưng nếu không có muối, thì không xong. Ngày thường, thức ăn đều có nêm muối vào, ví thử đừng nêm, thì ta sẽ chết ngay. (Climats, tr.228)


“La maladie est une forme de bonheur moral, parce qu’elle impose à nos désirs et à nos soucis des limites fermes.”

Đau ốm, bệnh hoạn là một triệu chứng của sự hạnh phúc ta ấp ủ trong lòng; đau ốm là mức thắng tốp của sự ham muốn, lòng dục vọng. (Climats, tr.230)


“L’amour supporte mieux l’absence ou la mort que le doute ou la trahison”.

Nói vợ là ái tình, thà chịu cảnh sanh ly, hoặc tử biệt, hơn là cảnh bán tính bán nghi và cảnh mọc sừng. (Climats, tr.231)


Climats là gì ? Cụ Vương dịch là Ấm lạnh phòng the


Comments